Đến giữa trưa ngày hôm sau thì bên nhà bà Phấn có người qua báo tin là người ta đã tìm thấy xác của Diệu Hương nằm chết ở gốc cây cổ thụ, cạnh miếu cổ, nơi Thiện đã tìm được chiếc khăn tay bữa trước! Đang kiệt sức, nhưng vừa nghe điều đó Thiện đã bật dậy đòi đi. Khi sang tới chỗ, Thiện đã bật khóc khi thấy xác vợ được mang về nằm ở nhà mà sắc diện vẫn còn nguyên như khi sống. Bà Phấn vừa khóc vừa kể lại:
- Má đang ngủ thì nghe có tiếng gọi và khóc ở ngoài, má ra mở cửa thì chỉ thấy một cái bóng vụt chạy nhanh. Nhìn cái bóng đó tự dưng má nghĩ tới con Diệu Hương! Má chạy theo và cuối cùng tới chỗ miếu cô hồn, và… đã thấy xác nó nằm ở đó. Bà khóc hết nước mắt, trong lúc Thiện thẫn thờ, anh lẩm bẩm:
- Người ta đã hại em rồi. Bà Phấn nghe loáng thoáng không rõ nên hỏi lại:
- Ai hại ai? Thiện không đáp, anh lặng im bước ra ngoài rồi âm thầm đi về hướng miếu cô hồn. Có điều gì uẩn khúc khiến cho Thiện nghĩ anh có thể tìm ra ở đây… Đang lúc còn đang nhìn ngắm, chợt Thiện giật mình khi phát hiện trên vách phía trong tòa miếu cô hồn có hai dòng chữ viết bằng thứ máu đỏ mà lâu ngày đã trở thành màu nâu sẫm. Vừa thấy dòng chữ Thiện đã tái mặt, bởi nó giống y như hai câu thơ trên vách đá ở thác Dambri: “Một thuở yêu người, ngàn năm không hết nhớ, Nửa tuần trăng mật, suốt kiếp khó phôi pha…”
- Yến Vỹ! Thiện chết điếng. Như vậy mà anh đã không thoát được nàng ấy. Vậy mà khi đè chết ông lão hôm có, chính ông lão cho biết là anh đã thoát được sự báo oán, bởi chính ông đã hy sinh để cứu mạng cho anh, sao bây giờ vẫn còn cuộc tầm thù này?
- Tại sao giữa chốn quê này và Dambri xa xôi lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên này? Không lẽ nơi này là quê hương của Yến Vỹ mà ngôi miếu này là để thờ nàng? Đầu óc Thiện càng lúc càng thêm hoang mang. Anh đứng tần ngần đọc đi đọc lại hai câu thơ mà không để ý có người đang quan sát mình rất lâu, đến khi người đó cất tiếng hỏi:
- Cậu tìm gì ở đó vậy? Ngẩng lên thấy một bà cụ, Thiện vội nói:
- Thưa bà, cháu thấy lạ vì trong miếu có mấy câu thơ… Bà già hình như am hiểu về ngôi miếu hoang:
- Chuyện chỉ liên quan tới người ta, cậu việc gì phải tò mò… Câu nói đó làm cho Thiện càng tò ngò thêm:
- Bà nói liên quan tới ai?
- Tại sao cậu muốn biết?
- Dạ, xin bà cho biết, cháu muốn… Bà già vừa quay bước vừa nói:
- Lâu rồi ta không nói với ai chuyện này, nhưng mấy hôm nay ta cảm thấy trong người gần như không còn sức nữa, ta hiểu rằng cũng nên nói cho ai đó biết chuyện của ngôi miếu này, kẻo rồi chẳng còn ai biết mà kể… Thiện bước theo, anh năn nỉ: – Bà kể cho cháu nghe đi, cháu cần biết… Ra dấu cho Thiện theo mình về một ngôi nhà ngói cũ gần đó, khi về đến nơi bà mới nói tiếp:
- Cậu là người đầu tiên nghe tôi nói chuyện này, cậu vào nhà đi. Thiện ngoan ngoãn bước theo vào. Vào bên trong rồi anh chưa kịp hỏi gì thì đã nghe bà già lên tiếng:
- Cậu là người xứ nào tới?
- Dạ… cháu ở xã bên kia sông, cháu tới đây để làm rể nhà Hai Phấn. Vừa nghe nói bà già đã trố mắt:
- Nhà có đứa con gái vừa mới chết?
- Dạ.
- Chết bởi dính tới nhà họ Đoàn? Thiện hốt hoảng:
- Bà biết chuyện đó? Không nhìn thiện, bà lão đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, giọng trầm buồn:
- Chuyện này tưởng đã trôi qua rồi, sao bây giờ lại tái diễn nữa, oan oan tương báo đây mà… Thiện cố ý lắng nghe, nhưng bà già ngừng nói khá lâu rồi mới tiếp:
- Tưởng nhà họ Đoàn đó bỏ đi thì hết chuyện, nào ngờ khi cái miếu âm hồn còn đó thì vẫn còn chuyện oán thù…
- Nhà họ Đoàn ở xứ này sao? Chỉ tay ra phía ngôi miếu âm hồn, bà nói:
- Chính chỗ cây đa cổ thụ đó ngày xưa là cổng nhà của họ. Chính ngôi miếu đó là nguyên nhân khiến họ bỏ nhà đi biệt cho đến nay không nghe tin tức gì!
- Ai bỏ đi vậy bà?
- Thì nhà họ Đoàn! Trước kia, khoảng hơn hai mươi năm họ là một bá hộ trong vùng này, có ngôi nhà lớn nhất làng, ngoài ra nghe nói còn vài ngôi nhà nghỉ mát ở những nơi xa xôi nữa… bởi ông chủ họ Đoàn là người làm nghề khai thác gỗ rừng ở vùng cao nguyên, giàu có lớn lắm! Thiện thêm tò mò:
- Giữa chuyện bỏ xứ ra đi của họ Đoàn đó có liên quan gì tới ngôi miếu âm hồn đó vậy bà?
- Có chứ. Cái miếu đó là do chính họ Đoàn lập nên trước khi trốn đi! Rồi không đợi Thiện hỏi, bà nói tiếp:
- Họ lập miếu vì bị oan hồn phá dữ quá! Nghe nói họ gây tội ác gì đó với một cô trinh nữ ở đâu đó trên miệt rừng, rồi khi trở về đây oan hồn theo về. Hồi đó ở đây đã từng nghe chuyện cả hai đứa con do vợ ông chủ họ Đoàn vừa sinh ra đã bị chết một cách đầy bí ẩn, khiến cho bà vợ sợ quá phải đem đứa con thứ ba vừa sinh ở thành phố gửi đi biệt luôn, chẳng biết là đi đâu, cho đến khi họ rời khỏi làng này.
Thiên hạ nói sau đó nhà họ Đoàn chẳng những trốn đi xứ khác mà còn thay họ đổi tên nữa! Có lẽ nhờ vậy mà từ đó nơi này không còn chuyện đêm đêm hồn ra một cô gái hiện về ở miếu âm hồn để kêu khóc, đòi mạng nữa. Vậy mà nay lại xảy ra chuyện con gái Hai Phấn bị hại, xác lại ở ngay miếu đó.
- Chẳng lẽ… Bà già chợt nhìn sững vào Thiện: Cậu có liên quan gì tới họ Đoàn không? Thiện hốt hoảng: Dạ không! Cháu họ Dương. Kỳ lạ… Bà già ông câu nói rồi im lặng. Hình như bà đang suy nghĩ điều gì đó… Hồi lâu, bà chợt hỏi:
- Sao cậu biết gia đình bà Hai Phấn mà cưới con gái bà ấy?
- Dạ, do má cháu quen biết. Trước đây nghe nói má cháu có ở xứ này.
- Má cậu tên gì?
- Dạ… người ta hay gọi là bà Năm.
- Phải Năm Hường không? Nghe bà hỏi Thiện giật mình, bởi cái tên Hường là tên tục của mẹ mà lâu lắm rồi ít nghe ai gọi. Anh lúng túng:
- Bà… bà biết má cháu? Bà già sừng sốt nhìn Thiện:
- Chẳng lẽ cậu là… là… Bà không nói hết câu đã đứng vụt dậy. Đột ngột hỏi:
- Cậu là con trai của Đoàn Trung? Thiện lắc đầu:
- Dạ không. Cha cháu là Dương Hòa. Sau câu trả lời của Thiện, bà già mới bớt căng thẳng:
- Vậy là không phải rồi, nhưng cậu về hỏi bà mẹ cậu xem bà có biết ông Đoàn Trung không? Và bà có phải là Năm Hường ngày xưa là con của nghiệp chủ Lợi ở Cần Thơ không? Tuy bớt căng thẳng, nhưng bà cụ vẫn không thôi nhìn Thiện với đôi mắt tò tò:
- Sao mẹ cậu lại là Năm Hường? Thiện lắc đầu:
- Cháu cũng không biết. Bà già lẩm bẩm một mình:
- Chuyện này không lẽ… Rồi có lẽ do đã ngồi nhiều, nói nhiều nãy giờ, nên bà già nhẹ lắc đầu bảo Thiện:
- Thôi, cậu biết bao nhiêu đó đủ rồi. Nếu không phải là người của họ Đoàn thì tôi khuyên cậu không nên tò mò ở cái miếu đó làm gì. Đã có biết bao nhiêu rắc rối xung quanh nó rồi, mà làng này cũng không còn muốn xảy ra thêm những cái chết oan uổng nữa! Thôi, cậu về đi. Nói tôi gửi lời chia buồn với bà Hai Phấn. Bà ta nói xong thì lặng lẽ đi vào nhà trong để lại Thiện với những thắc mắc trong lòng… Chôn cất vợ xong thì Thiện trở về nhà ngay. Và việc đầu tiên là anh hỏi ngay mẹ mình:
- Có phải trước đây má ở Cần Thơ không? Ông ngoại con là nghiệp chủ Lợi? Tuy có ngạc nhiên, nhưng mà Năm vẫn nhẹ nhàng đáp:
- Phải. Con hỏi chi vậy?
- Tại vì lâu nay con ít có dịp hỏi chuyện dòng họ mình.
- Cũng bởi ngay từ nhỏ con đã xa nhà, sống tận bên Pháp, nên đâu có dịp nào… Thiện chợt hỏi:
- Sao con phải xa nhà từ lúc con nhỏ xíu vậy má? Câu hỏi đó khiến bà Năm phải nhìn sững và con trai, rồi lát sau bà mới đáp:
- Anh em con thuộc dạng khó nuôi, cho nên bà má phải gửi con cho chú Sáu ở bên Pháp nuôi.
- Má nói con khó nuôi là sao? Bộ hồi mới sinh ra con bệnh hoạn dữ lắm sao? Bà Năm lắc đầu:
- Không. Trái lại lúc sinh ra con nặng trên ba ký và bụ bẫm lắm, má tính giữ lại, nhưng ba con quyết không cho. Cũng bởi hai anh chị con trước đó đã… Bà ngừng nói, nhưng Thiện đã đột ngột hỏi:
- Anh chị con có phải đã chết hết ngay từ khi mới sinh ra không? Bà Năm nhìn con ngạc nhiên:
- Sao con biết?
- Vậy là đúng phải không? Nhưng sao từ lâu nay con không nghe má nói? Nếu con không nhờ người ta cho biết thì… Rồi bất chợt Thiện hỏi:
- Mình thật ra là họ gì má? Bà Năm hốt hoảng thấy rõ:
- Con… con hỏi để làm gì?
- Nhưng má chưa trả lời con. Con có phải thật sự họ Dương không, hay là… họ Đoàn? Câu hỏi này đã làm cho bà Năm run lên, biến sắc liền:
- Con… con đừng hỏi! Thiện mới là người hoảng loạn trong lúc này. Anh run giọng nói:
- Như vậy thật sự là họ Đoàn rồi. Rồi như thân cây đỗ xuống, Thiện ngã ngồi xuống sàn nhà trước sự hoảng hốt của bà Năm:
- Kìa, con làm sao vậy Thiện? Thiện nói như người tâm thần:
- Vậy ra con là người nhà họ Đoàn. Cha con là Đoàn Trung chứ đâu phải là Dương Hòa, phải không má? Bà Năm cũng như chiếc bong bóng xì hơi:
- Con biết hết rồi còn gì phải hỏi má nữa… Một sự im lặng đến khó thở… mãi một lúc sau Thiện mới thở dài:
- Con nhận hậu quả là phải rồi, cớ sao lại bắt vợ con phải chết, hở trời! Bà Năm ấp úng:
- Chuyện ngày xưa đó… đã qua rồi.. ba con cũng đã chết rồi. Hơn hai mươi năm rồi còn gì…
- Nhưng rõ ràng là chưa hết. Má có biết Diệu Hương chết là do ai không? Do oan hồn người con gái tên là Yến Vỹ! Vừa nghe tới cái tên ấy, bà Năm đã kêu thét lên: – Sao con biết tên đó? Sao con…
- Chẳng những biết mà còn gặp nữa. Và còn… Anh lặng người đi, rồi lát sau òa lên khóc! Bà Năm sợ hãi:
- Chuyện gì đến nỗi vậy con? Má nghĩ đây là chuyện do ba con làm ngày xưa. Mà tội ai làm nấy chịu chứ? Vả lại lâu nay má đâu có thấy vong hồn của cô ấy về nữa đâu?
- Má có biết hai câu thơ này không: Một thuở yêu người ngàn năm không hết nhớ
- Vậy là con hiểu hết rồi… Bà gục xuống ôm mặt khóc ròng. Thiện dịu giọng:
- Con muốn biết nhiều hơn về chuyện nhà mình, má đừng giấu con nữa. Bà Năm khóc một lúc rồi chợt ngẩng lên hỏi:
- Ai nói cho con hết chuyện này?
- Chính con đã gặp cô ấy!
- Ở đâu?
- Ở thác Dambri.
- Trời ơi! Bà Năm kêu lên như vậy rồi lại khóc. Hồi lâu sau, bà mới nói qua làn nước mắt:
- Tội ác của ba con xảy ra ở trên ấy, đúng rồi!
- Má kể hết cho con nghe đi. Bà Năm vụt đứng lên, rồi thay vì bước vào phòng riêng, bà lại đi ra bên hông nhà. Thiện đi theo, hỏi mẹ:
- Má đi đâu vậy? Cầm lấy cây thuổng đào đất dựng bên hông nhà, bà Năm đi thẳng tới gốc cây mít lớn nhất trong vườn rồi bảo con:
- Má đào không nổi, con giúp má đào nó lên. Thiện ngạc nhiên:
- Cái gì ở dưới?
- Tất cả sự thật mà con muốn biết! Thiện đào từng nhát thuổng mà lòng rối bời. Lát sau, anh phát hiện một chiếc rương sắt nhỏ nằm dưới lớp đất sâu, hơi ngạc nhiên thì bà Năm đã nói:
- Con lấy nó lên, không có tiền bạc gì hết trong ấy, chỉ có một quyển sổ mà má đã đốt, nhưng đốt năm lần bảy lượt nó vẫn không cháy, nên đành phải chôn, hy vọng thời gian sẽ làm nó tiêu hủy… Mở rương sắt ra thì quả nhiên chỉ có đúng một quyển sổ bìa cứng đã khá cũ nằm trong đó. Thiện chưa dám cầm lên thì bà Năm đã nhắc:
- Con cứ mang đề phòng riêng mà đọc. Đọc rồi tùy con muốn hủy bỏ hay chôn lại cũng được. Má sợ nó lắm rồi! Bà quay lưng bỏ đi. Thiện cầm quyển sổ một lúc lâu rồi mới bước về phòng. Mặc dù đã khá mệt sau những gì từ sáng đến giờ, nhưng Thiện vẫn cố mở quyển sổ ra và đọc ngấu nghiến:
Ngày… tháng… năm…
Đúng ra hôm nay mình không lên Blao. Nhưng có lẽ duyên số trời định nên mình đột ngột từ Gia Nghĩa đã quay xe về đó qua con đường đi tắt và… đã gặp được nàng! Người con gái hai dòng máu Kinh – Thượng mà sao đẹp đến lạ thường! Khi mình hỏi nàng tên gì, nàng chỉ đáp gọn hỏi chữ: Yến Vỹ! Mình tự giải thích:
- Yến Vỹ là cái đuôi con chim én! Mà con chim én (hay yến) có duyên và đẹp nhất là ở cái đuôi ngúng nguẩy! Nàng cười tít mắt rồi đột ngột hỏi lại mình:
- Anh có muốn nuôi con chim én này trong lồng không? Trong lúc ngẫu hứng mình đã đáp nhanh:
- Muốn quá đi chứ! Thế là chỉ trong vòng một buổi ngắn ngủi gặp nhau, mình và Yến Vỹ đã yêu nhau. Mà cũng đâu có gì là sai trái, bởi mình là trai chưa vợ và nàng là gái chưa chồng, cả hai đều có quyền đến với nhau, yêu nhau! Hai tháng sau khi mình trở lên Blao lần nữa thì mình đã đi tới một quyết định khá bất ngờ đối với nàng:
- Anh sẽ cất nhà và ở lại đây lập nghiệp. Yến Vỹ ngạc nhiên không tin:
- Nơi đây đâu có cơ sở làm ăn gì của anh đâu mà anh quyết định ở lại? Mình cười đáp:
- Sao lại không? Cơ sở vững chắc đó là em! Anh sẽ cưới em và vợ chồng mình xây tổ ấm nơi đây, ngay gần cái thác nước này. Anh đã tới thác Cam Ly, thác Prenn, Pongour… nhưng chỉ thấy nơi đây là đẹp hơn cả. Có lẽ tại vì có em! Vậy là mình gắn cuộc đời với vùng đất có dòng thác Dambri đẹp mê hồn. Thiên tình sử đẹp như trang vẽ đã bắt đầu với lời hứa hẹn của hai đứa bên dòng thác tuôn chảy ì ầm, mình đã hứa với nàng:
- Suốt đời này anh chị có mình em mà thôi! Dù cho vật đổi sao dời thì vẫn chỉ một cái tên Yến Vỹ trong đời Đoàn Trung này! Nàng cũng đã long trọng hứa vào buổi chiều ánh hoàng hôn vắt qua ngọn thác:
- Trong đời này nếu trời còn, đất còn thì tình của Yến Vỹ dành cho Trung mãi mãi còn! Nếu sai lời thì trời tru đất diệt! Mình đã rợn người trước câu thề thốt nặng nề đó, nhưng biết sao khi tình của nàng ấy đối với mình phút chốc đã quá sâu nặng rồi! Và mình cũng đã phải thề lại cho nàng tin:
- Anh nguyện suốt đời bên em, nếu bội ước thì sẽ phải trả bằng cả tương lai của mình!
- Ngày… tháng… năm… Vậy là hai đứa hoàn thành được ước nguyện. Mặc dù cha mẹ mình từ quê nhà nghe tin đã phản đối cuộc tình mà họ cho là trái chiều, không hợp lẽ, bởi theo họ thì người Kinh không thể thành vợ chồng với người con gái Thượng. Mà phía gia đình Yến Vỹ cũng phản đối. Họ cho rằng tình yêu mình dành cho Yến Vỹ là không thật, họ nghi ngờ…